FAQ

Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là gì?

26

Luật Hình sự Việt Nam quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là một trường hợp đặc biệt. Đa số những người không thuộc trường hợp được nêu tại Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015 đều được coi là có năng lực trách nhiệm hình sự.

Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

So với Bộ luật Hình sự năm 1999 (Điều 13), Bộ luật Hình sự năm 2015 (Điều 21) có điểm khác biệt trong cách trình bày. Bộ luật năm 1999 không chỉ nêu định nghĩa mà còn đề cập đến cách xử lý: áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Bộ luật năm 2015 chỉ nêu trường hợp không chịu trách nhiệm hình sự, phù hợp với Chương 4 “Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự”.

Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định hai dấu hiệu để xác định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự:

  • Dấu hiệu về y học: Người gây thiệt hại cho xã hội mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác gây rối loạn hoạt động tâm thần. Một số bệnh tâm thần thường gặp bao gồm thiểu năng tâm thần, tâm thần phân liệt. Các bệnh khác có thể kể đến như loạn thần do tuổi già, rối loạn nhận thức sau tai biến, rối loạn nhận thức sau chấn thương sọ não, và bệnh động kinh.

  • Dấu hiệu về tâm lý: Do mắc bệnh, người đó mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Dấu hiệu này thể hiện ở việc người đó không nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi, không hiểu hành vi đó đúng hay sai, phù hợp hay không với chuẩn mực xã hội và pháp luật. Họ không thể kiềm chế hành vi nguy hiểm hoặc cân nhắc lựa chọn hành vi phù hợp.

Mất khả năng nhận thức thường dẫn đến mất khả năng điều khiển hành vi. Tuy nhiên, có những trường hợp, ví dụ như người lên cơn động kinh khi đang lái xe, vẫn có thể nhận thức được nhưng không thể điều khiển hành động của mình.

Để được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự, một người phải thỏa mãn cả hai dấu hiệu y học và tâm lý, trong đó dấu hiệu tâm lý đóng vai trò quyết định. Nếu người mắc bệnh tâm thần ở mức độ nhẹ, vẫn có điều kiện để nhận thức và điều khiển hành vi, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự nếu gây thiệt hại, nhưng có thể được giảm nhẹ.

Việc xác định hai dấu hiệu này phải thông qua giám định tâm thần tư pháp. Kết luận giám định là căn cứ để quyết định một người có thuộc trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự hay không.

0 ( 0 bình chọn )

Diễn đàn ngày hội thanh niên thủ đô khởi nghiệp

https://khoinghiephn.vn
Để khởi nghiệp thành công, các bạn phải nhớ 8 chữ T cần thiết gồm tức khí, tò mò, thử nghiệm, tìm kiếm, chữ tín, thất bại, thử lại, thành công", nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan chia sẻ với thanh niên thủ đô

Ý kiến bạn đọc (0)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan

Bài viết mới

Xem thêm